Các căn cứ trong Hiến pháp năm 2013 hạn chế quyền con người, quyền công dân
Các căn cứ trong Hiến pháp năm 2013 hạn chế quyền con người, quyền công dân
Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, chống lại các tác nhân xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, những quyền này không phải là quyền tuyệt đối. Hiến pháp năm 2013 là bản Hiến pháp đầu tiên, phát triển hơn so với các bản Hiến pháp trước đây có ghi nhận về việc hạn chế quyền con người, quyền công dân. Nó được thể hiện thông qua các căn cứ, quy định mà bài viết sau đây sẽ làm rõ.
Quyền con người là gì?
Quyền con người được xem là quyền của tất cả mọi người, bất kể những ai đang sống và tồn tại trong xã hội loài người đều được trao quyền năng đặc biệt này. Đó là những nhu cầu, những lợi ích, những mong muốn của con người được pháp điển hoá trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Quyền con người, tiếng Anh là Human rights, Droits de L'Homme hiểu chung nhất là tất cả các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người được sinh ra từ bản chất con người do tính chất nhân bản của nó. Tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người. Vì vậy, quyền con người được coi là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.
Quyền con người được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên và quyền pháp lý.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm quyền con người là:
Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.
Tìm hiểu thêm tại: Phaptri.vn trang chia sẻ kiến thức pháp luật
Quyền công dân là gì?
Quyền công dân là nhóm quyền dành cho những người có quốc tịch của một nước. Quyền công dân Việt Nam là quyền của những người mang quốc tịch VIệt Nam, nó được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều chỉnh mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước.
Quyền công dân bao gồm các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, tôn giáo, quyền tự do.
Hạn chế quyền con người, quyền công dân là gì?
Không phải trong mọi trường hợp, quyền con người, quyền công dân cũng được đảm bảo một cách tuyệt đối. Đôi khi vì những lợi ích quốc gia, dân tộc, vì đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của những người khác mà quyền con người, quyền công dân của một chủ thể sẽ bị giới hạn, hạn chế.
Có thể hiểu đơn giản, hạn chế quyền con người, quyền công dân là việc áp đặt một số điều kiện với việc thực hiện hoặc thụ hưởng một số quyền con người, quyền công dân nhất định do Nhà nước nhằm mục đích các quyền và tự do của người khác, những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ phải được bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng.
Xem thêm về: tải mẫu hợp đồng mua bán đất
Căn cứ trong Hiến pháp năm 2013 về hạn chế quyền con người, quyền công dân
Căn cứ pháp lý: Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013
Dựa theo căn cứ này, hạn chế quyền con người, quyền công dân được quy định như sau:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân là để cân bằng những nhóm lợi ích trong xã hội, cân bằng lợi ích của các chủ thể khác nhau, hạn chế quyền của chủ thể này là để đảm bảo lợi ích, quyền hợp pháp cho chủ thể khác.
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được thiết lập những cơ chế đồng bộ, hợp pháp, rõ ràng bởi có thể nếu việc hạn chế quyền có phạm vi quá rộng, sự hạn chế này đã đi quá xa thì rất có thể xâm phạm tới chính lợi ích của người bị hạn chế. Trong đó, Hiến pháp và các văn bản pháp luật sẽ phải quy định rõ về cơ chế vận hành, cách thức hoạt động của hạn chế quyền con người, quyền công dân. Đó là một hệ thống những phương tiện pháp lý bao gồm các nguyên tắc, các quy định, chế định, hành vi, quan hệ, các thiết chế pháp lý khác… hay hệ thống các phương thức để thiết lập nên những khuôn khổ, phạm vi hạn chế việc sử dụng quyền con người trong các trường hợp thật cần thiết theo luật định vì mục tiêu bảo vệ quyền, tự do, các giá trị của con người.
Không phải trong mọi trường hợp, quyền con người, quyền công dân đều bị hạn chế, mà các quyền này bị hạn chế trong những trường hợp cần thiết, là những trường hợp mà lợi ích quốc phòng, an ninh quốc gia bị đe doạ, hay không thể đảm bảo được trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội nếu như không hạn chế các quyền con người, quyền công dân này, hoặc vì lợi ích, sức khỏe cộng đồng đang bị đe dọa mà có thể hạn chế quyền con người, quyền công dân. Đây là cơ chế để đảm bảo những quyền của chủ thể này không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân được thể hiện qua các quy định trong Hiến pháp năm 2013 như sau:
Quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khoẻ, thân thể, Hiến pháp quy định mọi người có quyền được sống, tính mạng con người luôn được pháp luật bảo hộ, không ai được quyền xâm phạm tính mạng, sức khỏe danh dự, nhân phẩm của người khác. Chính vì thế mà khi phát sinh trường hợp các quyền này của một con người bị đe dọa bởi người khác thì quyền của người đó sẽ bị hạn chế, bao gồm quyền tự do đi lại (Điều 19, Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp 2013)
Quyền hiến mô, hiến bộ phận cơ thể người, hiến tạng. Tính hạn chế được thể hiện ở chỗ là nó lấy mất đi sự bất khả xâm phạm về thân thể của người này để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho người khác (Khoản 3 Điều 20 Hiến pháp 2013)
Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Tính hạn chế thể hiện ở chỗ không ai được phép bóc, mở thư từ, điện thoại, điện tín, bí mật cá nhân của người khác (Điều 21 Hiến pháp 2013)
Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: tương tự như trên, tính hạn chế được thể hiện ở chỗ không ai được phép xâm nhập chỗ ở khi không có sự cho phép của người khác (Khoản 3 Điều 22 Hiến pháp năm 2013)
Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo (Khoản 3 Điều 24)
Quyền khiếu nại, tố cáo: sự hạn chế được thể hiện ở chỗ không ai được phép lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để lăng mạ, sỉ nhục, tác động đến nhân phẩm của người khác (Khoản 3 Điều 30 Hiến pháp 2013)
Quyền được suy đoán vô tội (Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013)
Quyền sở hữu tài sản: sự hạn chế được thể hiện ở chỗ trong trường hợp thật cần thiết, nhà nước trưng dụng hoặc trưng mua tài sản có bồi thường cho các tổ chức, cá nhân sở hữu vì lý do quốc phòng, an ninh,...(Khoản 3 Điều 32 Hiến pháp năm 2013)
Trên đây là những căn cứ được quy định trong Hiến pháp năm 2013 về sự hạn chế quyền con người, quyền công dân, biểu hiện của sự hạn chế đó qua Hiến pháp. Thông qua đây, mọi người có thể xác định được mình có những quyền con người, quyền công dân nào và những quyền nào bị hạn chế.
Nội dung khác: mẫu hợp đồng mua bán nhà đất

Nhận xét
Đăng nhận xét